Tăng trưởng kinh tế xanh là con đường tất yếu để Việt Nam gia nhập nhóm thu nhập cao

Phạm Sinh

Phạm Sinh

Theo ông Nguyễn Bá Hùng – Chuyên gia Kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam, việc phát triển kinh tế xanh là con đường tất yếu để đưa Việt Nam phát triển bền vững và có thể tham gia vào nhóm quốc gia có thu nhập cao. Đồng thời, đáp ứng yêu cầu từ chuỗi giá trị toàn cầu về phát thải, công nghệ và tiêu chuẩn ESG (môi trường – xã hội – quản trị)…

Tăng trưởng xanh là “cứu cánh” của môi trường sống toàn cầu

Chia sẻ tại Diễn đàn “Công nghiệp xanh: Hài hòa mục tiêu tăng trưởng cao, phát triển bền vững” do Tạp chí Kinh tế Việt Nam – VnEconomy – Vietnam Economic Times tổ chức ngày 9/7, ông Nguyễn Bá Hùng – Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) tại Việt Nam cho biết, hiện nay trên thế giới có nhiều cách tiếp cận khác nhau về tăng trưởng xanh và chưa có một định nghĩa thống nhất.

Chẳng hạn như Liên hợp quốc, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) hay Viện Tăng trưởng Xanh Toàn cầu (GGGI) đều đưa ra các quan điểm riêng khác nhau.

Tại Việt Nam, tôi sử dụng định nghĩa trong Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, với ba điểm nhấn bao gồm: Thay đổi mô hình tăng trưởng khi không tiếp tục cách phát triển truyền thống, cần tái cấu trúc nền kinh tế; ng dụng công nghệ tiên tiến và hạ tầng hiện đại; Sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính và thích ứng với biến đổi khí hậu” – ông Hùng cho biết.

Ông Nguyễn Bá Hùng - Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)
Ông Nguyễn Bá Hùng – Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)

Trình bày tham luận, ông Hùng cũng đưa ra một biểu đồ về nhiệt độ trung bình trên bề mặt Trái đất trong 100 triệu năm qua.

Trong đó, nền nhiệt giảm dần và trở nên ổn định trong khoảng 10.000 năm gần đây – thời kỳ thuận lợi cho loài người sinh sống và phát triển.

Tuy nhiên, kể từ năm 1850, mốc của thời kỳ công nghiệp hóa, khi con người bắt đầu khai thác nhiên liệu hóa thạch, lượng khí carbon bị đẩy trở lại khí quyển, phá vỡ chu trình cân bằng của hệ sinh thái.

Đây là nguyên nhân chính dẫn đến biến đổi khí hậu.

Tại COP26, thế giới từng đặt mục tiêu giữ mức tăng nhiệt độ toàn cầu dưới 1,5°C so với thời kỳ tiền công nghiệp, nhưng hiện nay mục tiêu khả dĩ nhất là không vượt quá 2°C và chúng ta cũng đang gặp khó khăn với mục tiêu này.

Nếu xu hướng hiện nay tiếp tục, nhiệt độ trung bình của Trái đất sẽ vượt khỏi “khoảng an toàn”, đe dọa điều kiện sinh tồn của loài người. Đây là cơ sở khoa học quan trọng cho tiếp cận nghiêm túc đối với tăng trưởng xanh và phát triển bền vững” – ông Hùng nhấn mạnh.

Vì vậy, việc chuyển từ phát triển “có đánh đổi” sang phát triển “không đánh đổi” là điều kiện cấp thiết đối với tất cả các quốc gia nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững. Trong đó, khái niệm “decoupling – tách rời” tăng trưởng kinh tế khỏi tiêu hao tài nguyên và thiệt hại môi trường là một nội dung cốt lõi trong mô hình tăng trưởng xanh.

Cũng theo ông Hùng, trước đây người ta mặc định rằng tăng trưởng kinh tế đi kèm với việc tăng khai thác tài nguyên, gây thiệt hại đến môi trường. Tuy nhiên, mô hình này hiện không còn phù hợp, vì nếu tiếp tục theo hướng đó, chi phí dài hạn cho nền kinh tế sẽ rất lớn. Mục tiêu của tăng trưởng xanh là vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng cao nhưng giảm dần tỷ lệ sử dụng tài nguyên và giảm thiệt hại môi trường.

Ví dụ, nếu thực hiện tăng trưởng xanh, nếu quy mô nền kinh tế tăng gấp đôi, thì lượng tài nguyên sử dụng không nhất thiết tăng gấp đôi, mà có thể chỉ cần tăng thêm 20 – 30% nhờ ứng dụng công nghệ, đổi mới quy trình sản xuất và nâng cao hiệu suất. Đây chính là chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng tuyến tính sang mô hình kinh tế tuần hoàn, từ phát triển “có đánh đổi” sang phát triển “không đánh đổi”.

 “Nếu vẫn duy trì công nghệ cũ, muốn tăng sản lượng thì buộc phải tăng đầu vào tương ứng  tức là tiêu tốn thêm tài nguyên. Khó có thể đạt được tăng trưởng mà đầu vào lại không tăng hoặc tăng chậm hơn, trừ khi có bước tiến về công nghệ. Điều chúng ta cần là các công nghệ hiệu quả hơn, sử dụng ít tài nguyên hơn” – ông Hùng phân tích.

Về mặt môi trường, nếu theo mô hình cũ, càng tăng trưởng thì thiệt hại môi trường càng lớn, tuy nhiên hiện nay, chúng ta có cơ hội không chỉ giảm tác hại mà còn đóng góp tích cực vào môi trường, nhờ vào các công nghệ xanh.

Điều này đồng nghĩa với việc, thay vì làm tổn hại môi trường, doanh nghiệp có thể tham gia phục hồi hoặc cải thiện môi trường, ví dụ như xử lý rác, giảm ô nhiễm không khí” – ông Hùng nhấn mạnh.

Chuyên gia Kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam cũng cho rằng, ở giai đoạn thu nhập thấp, tăng trưởng thường đi kèm tác động tiêu cực đến môi trường do hạn chế về công nghệ. Tuy nhiên, khi vượt qua ngưỡng chuyển đổi, nền kinh tế có thể vừa tăng trưởng thu nhập, vừa giảm tác động môi trường. Đây chính là cơ hội cho tăng trưởng xanh.

Tăng trưởng kinh tế xanh là con đường tất yếu để Việt Nam gia nhập nhóm thu nhập cao

Theo ông Nguyễn Bá Hùng, Việt Nam cần chuyển từ mô hình phát triển khai thác tài nguyên sang tăng trưởng xanh, không đánh đổi môi trường để lấy tốc độ.

Đây là con đường tất yếu nếu muốn vừa gia nhập nhóm thu nhập cao, vừa đáp ứng yêu cầu khắt khe từ chuỗi giá trị toàn cầu về phát thải, công nghệ và tiêu chuẩn ESG.

Cũng theo ông Hùng, hiện nay, chuỗi cung ứng toàn cầu đang chuyển đổi theo hướng xanh – sạch – tuần hoàn, vì vậy Việt Nam cũng đang đứng trước yêu cầu phải tái định hình chiến lược phát triển công nghiệp.

Nếu không kịp thời thích ứng, quốc gia có nguy cơ bị bỏ lại phía sau trong cuộc đua phát triển bền vững toàn cầu.Các nghiên cứu cho thấy, khu công nghiệp xanh có thể giúp tăng năng suất lao động từ 15 – 25% nhờ áp dụng công nghệ cao, cải thiện môi trường làm việc và thu hút nhân sự chất lượng” – ông Hùng cho biết.

Đặc biệt, hiện nay Việt Nam đang ở gần ngưỡng chuyển đổi này khi đang bước vào mức thu nhập trung bình cao, ước tính khoảng 4.000 – 4.500 USD/người/năm.

Điều này đồng nghĩa với việc chúng ta đang đứng trước cơ hội bước vào giai đoạn tăng trưởng xanh và bền vững nếu có các điều kiện chính sách, công nghệ và đầu tư phù hợp”- ông Hùng khẳng định.

Tăng trưởng kinh tế xanh là con đường tất yếu để Việt Nam gia nhập nhóm thu nhập cao - ảnh minh họa
Tăng trưởng kinh tế xanh là con đường tất yếu để Việt Nam gia nhập nhóm thu nhập cao – ảnh minh họa

So sánh Việt Nam với thế giới, ông Hùng dẫn số liệu phát thải CO2 bình quân đầu người (dữ liệu năm 2019), cho thấy mức phát thải của Việt Nam ở mức khoảng 5 tấn/người/năm, thuộc nhóm thấp so với nhiều nước phát triển hoặc nước phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch như Ả Rập Xê Út, Mỹ, Nga. Tuy nhiên, nếu Việt Nam tiếp tục phát triển theo mô hình cũ, phát thải trên đầu người sẽ còn tăng khi quy mô sản xuất mở rộng.

Phân tích phát thải CO2 trên đơn vị GDP, ông Hùng cho biết đây là chỉ số phản ánh mức độ “sạch” của tăng trưởng.

Việt Nam hiện thuộc nhóm phát thải cao trên đơn vị GDP, ngang với các nước như Iran, Trung Quốc, Nam Phi… Tức là tạo ra 1 USD GDP thì phải phát thải CO2 nhiều hơn so với các nền kinh tế phát triển.

Như vậy, nếu muốn gia nhập nhóm nước có thu nhập cao, Việt Nam cần cải thiện cả hai chỉ số: Chấp nhận phát thải tăng vừa phải trên đầu người trong quá trình công nghiệp hóa; Phải giảm mạnh phát thải trên mỗi đơn vị GDP, thông qua ứng dụng công nghệ sạch, tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên.

So sánh với các nước ASEAN và OECD như Indonesia, Thái Lan, Malaysia và Philippines trong hơn 10 năm qua, cho thấy ngoại trừ Philippines, các nước này đã giảm được phát thải trên đơn vị GDP, nhờ cải thiện công nghệ và chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Trong khi đó, Việt Nam ngược lại, vẫn còn phát thải cao và có xu hướng tăng, do vẫn đang nằm trong giai đoạn trước khi vượt ngưỡng chuyển đổi thu nhập.

Điều này phù hợp với đường cong Kuznets: Khi chưa vượt ngưỡng, tăng trưởng còn phải đánh đổi môi trường. Tuy nhiên, từ giai đoạn hiện tại trở đi, Việt Nam có cơ hội để thay đổi chuyển sang mô hình tăng trưởng xanh, hiệu quả hơn, và ít phát thải hơn” – ông Hùng phân tích.

Theo Chuyên gia đến từ ADB, vấn đề đặt ra là, Việt Nam có quyết tâm tham gia xu hướng này hay không?

 “Tôi cho rằng với việc Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, thì về mặt chính sách, chúng ta đã thể hiện rõ mong muốn. Tuy nhiên, để hiện thực hóa mong muốn này, Việt Nam cần đầu tư vào công nghệ xanh, chuyển đổi mô hình kinh doanh và điều chỉnh mô hình tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế, từ cấp doanh nghiệp đến tầm vĩ mô” –  ông Hùng nhấn mạnh.

Cũng theo ông Hùng, để cụ thể hóa lộ trình phát triển xanh, thực hiện cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050 như Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã cam kết tại COP 26, OECD đã xây dựng mô hình phát thải cho Việt Nam cách đây 2 năm với hai kịch bản bao gồm: Thứ nhất là tiếp tục mô hình cũ, đường phát thải tăng đều và không kiểm soát; Thứ hai là lộ trình giảm phát thải đến Net Zero 2050, phân chia theo nhóm ngành chính để xác định trách nhiệm và giải pháp cụ thể.

Theo ông Hùng, từ năm 2025 trở đi, Việt Nam phải bắt đầu có những nỗ lực lớn mới có thể đạt được mục tiêu Net Zero. Trong đó, vai trò của ngành năng lượng là cực kỳ quan trọng.

“Từ nay trở đi, giảm phát thải từ năng lượng sẽ vẫn là trọng tâm. Đặc biệt, tôi cho rằng việc xem xét khởi động lại điện hạt nhân là cần thiết, vì đây là nguồn điện nền ổn định, công suất cao mà không phát thải CO2” – ông Hùng cho biết.

Bên cạnh đó, ngoài năng lượng, cần phát triển công nghiệp và nông nghiệp xanh.

Đối với công nghiệp, cần áp dụng các công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng.

Đối với nông nghiệp, cần phát triển theo mô hình nông nghiệp tuần hoàn. Trong đó, sử dụng đất và thúc đẩy lâm nghiệp sẽ là cơ hội lớn để bù đắp phát thải thông qua trồng rừng, tăng diện tích che phủ, cải thiện quản lý đất đai.

Bên cạnh đó, chia sẻ về quản trị rủi ro liên quan đến ESG, trong bối cảnh phát triển thị trường tài chính xanh, ông Hùng cho biết ESG đang trở thành một tiêu chí quan trọng, không chỉ với nhà đầu tư, mà cả trong đánh giá sức khỏe và triển vọng doanh nghiệp.

ESG là cơ hội giúp doanh nghiệp tạo ra giá trị gia tăng như doanh thu, lợi nhuận, thị phần thông qua đầu tư xanh, sản phẩm xanh” – ông Hùng nhấn mạnh.

Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp không quản lý tốt, ESG có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tài sản, uy tín, khả năng vận hành và khả năng tiếp cận vốn. Vì vậy, hiện nay xu hướng toàn cầu là đưa ESG vào quy trình thẩm định dự án nhằm nâng cao chất lượng đánh giá, lường trước rủi ro dài hạn, tăng tính bền vững và hiệu quả vận hành.

Doanh nghiệp cần sớm chủ động tiếp cận ESG như một chiến lược quản trị rủi ro và tạo giá trị dài hạn, không chỉ để bắt kịp xu thế, mà còn để tồn tại và phát triển trong môi trường kinh doanh toàn cầu mới” – Chuyên gia Kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam nhấn mạnh.

Như vậy, việc chuyển đổi xanh – bền vững đối với Việt Nam là tất yếu để thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh nhằm hướng tới Netzero vào 2050. Gần hơn là mục tiêu tăng trưởng 8% trong năm 2025 và hướng đến tăng trưởng 2 con số những năm tiếp theo trong đó xác định công nghiệp tiếp tục được xác định là động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế.

Phạm Sinh

BÀI LIÊN QUAN