“Mã Châu tơ lụa mỹ miều
Sớm mai cửi mắc ban chiều tơ giăng”
Từ thế kỷ XVI, làng Mã Châu (nay thuộc huyện Duy Xuyên, Quảng Nam) bắt đầu dệt nên những thớ lụa mỹ miều, nhờ vào “cuộc gặp gỡ” kỳ diệu giữa đôi bàn tay khéo léo của người Bắc di cư và kinh nghiệm trồng dâu nuôi tằm của người Chăm bản địa.
Từ những nong tằm, con thoi, khung cửi mộc mạc, lụa Mã Châu ra đời: bền, mịn, thoáng, càng mặc càng óng ả.
Ngày ấy, làng Mã Châu chuyên cung cấp lụa quý cho hoàng tộc, cung đình. Và theo những chuyến thuyền xuôi biển, lụa Mã Châu len lỏi từ Hội An đến Huế, Sài Gòn, vươn xa sang các nước lân cận, đến tận phương Tây.
Một thời, hơn 300 hộ dân, 4.000 khung dệt, đã cùng nhau dệt nên danh tiếng vàng son cho xứ lụa đất Quảng.
Lụa Mã Châu mang một nét riêng, kết tinh từ tơ tằm thiên nhiên và đôi bàn tay khéo léo của những nghệ nhân làng nghề. Mềm mại, nhẹ bẫng, bền dai mà vẫn dịu lành với làn da – lụa nơi đây từng là niềm kiêu hãnh không chỉ của người dân Quảng Nam mà còn được người sành lụa khắp nơi săn tìm.
Làm ra một tấm lụa Mã Châu là cả một hành trình kỳ công, với tất thảy 19 công đoạn, từ nuôi tằm, ươm tơ, se sợi cho đến dệt vải…
Người làng vẫn truyền nhau câu nói: “Nuôi tằm ăn cơm đứng”, bởi mỗi vụ tằm, nhà nào cũng thức khuya dậy sớm, ăn vội, ngủ vội, chỉ để chăm từng nong kén, canh từng đợt thay lá dâu. Chỉ một thay đổi nhỏ của thời tiết cũng đủ khiến tằm biếng ăn, kém nhả tơ.
Những sợi tơ vàng óng, những thớ lụa mượt mà ra đời là kết tinh của bao mồ hôi, công sức lặng lẽ mà bền bỉ của những người mà “nghề dệt lụa đã ăn vào máu”.
Thế rồi chiến tranh tràn đến. Khi miền Trung trở thành vùng giao tranh, đền thờ Tổ Mẫu bị bom đạn san bằng, khung cửi bị bẻ đôi làm củi đốt. Những người con làng Mã Châu tản đi tứ tán, bỏ lại sau lưng những nong tằm, thoi sợi, tìm kế sinh nhai ở xứ người.
Có người mang theo cả giống tằm, cả khung cửi, nhưng lụa truyền thống rốt cuộc không thể địch lại với lụa công nghiệp giá rẻ. Lụa Mã Châu dần mất chỗ đứng trên thị trường, danh tiếng một thời chìm vào quá vãng.
Hồi sinh từ đống tro tàn
Trong số ít ỏi những người còn tha thiết với nghề, ông Trần Hữu Phương – truyền nhân đời thứ 18 của một dòng họ làm nghề dệt lâu đời ở Mã Châu – là người đặt cược cả đời mình cho một giấc mơ lớn: khôi phục lại làng lụa đã từng lụi tàn.
Thập niên 1990, khi cả làng lụa gần như rơi vào lãng quên, ông Phương rời Sài Gòn trở về quê, bắt đầu cuộc hồi sinh đầy cô độc. Người ta gọi ông là “con tằm cô đơn”, bởi ông giống như con tằm cuối cùng vẫn âm thầm nhả tơ, nuôi giấc mộng cứu lấy một di sản tưởng đã mất.
Ông từng gồng mình đứng giữa những thân dâu cuối cùng bên bờ sông Thu Bồn, đơn thương độc mã trong cuộc chiến sống còn, quyết không để tiếng lạch cạch của khung cửi, con thoi biến mất vĩnh viễn ở làng lụa Mã Châu…
Ngày ông bắt đầu lại, cả làng không còn lấy một khung cửi nào nguyên vẹn. Tằm giống thất truyền, người thợ xưa bỏ nghề hoặc đã không còn. Không vốn, không bạn nghề, ông tự mày mò dựng lại từng chiếc khung cửi cũ, lần tìm từng nong tằm, từng nắm giống dâu còn sót lại.
Có lúc, để có tiền duy trì sản xuất, ông phải đi làm thuê, bán lụa ở chợ Sài Gòn, gom góp từng đồng mang về nuôi nghề.
Nhiều người thương ông, nhưng cũng có lúc lắc đầu bảo ông gàn. Trong thời đại của sợi tổng hợp, mấy ai còn tin vào thứ lụa làm tay, vừa chậm, đắt đỏ, lại tốn nhiều công sức?
Nhưng ông Phương thì tin – vào tơ tằm, vào tiếng khung cửi, vào sự trở lại của một thứ lụa mang hồn đất và người xứ Quảng.
Bằng tình yêu nghề như một đức tin, ông kiên trì truyền lửa cho lớp trẻ, từng bước gây dựng lại làng nghề, phục hồi đủ 19 công đoạn làm lụa xưa.
Những tấm lụa đầu tiên của “con tằm cô đơn” ấy, sau gần ba thập niên, đã bắt đầu bay xa: đến tay nhà thiết kế, hiện diện ở Hội An, Huế, TP.HCM… mang theo niềm tự hào lặng thầm về một làng nghề tưởng chừng đã lụi tắt.
Từ chiếc khung cửi cũ kỹ còn sót lại, ông Phương bắt đầu dựng lại Hợp tác xã Tơ lụa Mã Châu – bằng tất cả vốn liếng, tâm huyết và niềm tin của cả gia đình.
Năm 2014, chị Trần Thị Yến, con gái ông tốt nghiệp đại học. Cô gái trẻ đã từ chối công việc nơi thành phố, quyết định quay về quê, cùng cha viết tiếp phần còn dang dở của câu chuyện làng lụa.
Không chỉ kế thừa nghề, Yến còn mang theo một luồng gió mới: từ chỗ chỉ sản xuất và bán lụa thô, cô đề xuất làm sản phẩm hoàn thiện – với mẫu mã, hoa văn phong phú, phù hợp thị hiếu người trẻ.
Ý tưởng ấy từng gặp không ít phản đối, nhất là từ những nghệ nhân lớn tuổi vốn quen với lối làm truyền thống. Nhưng Yến không lùi bước. Cô mang sản phẩm đến Hội An giới thiệu, từng bước thuyết phục người dân trong làng thay đổi cách làm – từ cách dệt, nhuộm, đến cách tiếp cận thị trường.
Và những nỗ lực ấy đã được đền đáp: hơn 700.000 mét lụa Mã Châu được tiêu thụ hết, mở ra một con đường sống mới cho làng nghề.
Giờ đây, làng lụa đang dần hồi sinh trở lại với sự tiếp bước của những người trẻ. Khó khăn thì vẫn còn đó, từ thị trường, nhân lực đến nguồn nguyên liệu.
Nhưng lụa Mã Châu đã đi qua ngần ấy thăng trầm, ngần ấy gian nan mà vẫn tồn tại bền bỉ, khiến người ta vừa cảm phục, vừa tin tưởng vào sức sống của làng nghề; và người ta cũng vững tin rằng, những “đặc sản” mang vác trong mình câu chuyện của truyền thống, của thời gian… đâu dễ dàng bị mai một.